Lịch sử Thủy_quân_lục_chiến_Hoa_Kỳ

Ban đầu

Thủy quân lục chiến Lục địa đổ bộ tại New Providence trong trận Nassau.

Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ có nguồn gốc từ Thủy quân lục chiến Lục địa của thời Chiến tranh Cách mạng Mỹ do Đại úy Samuel NicholasPhiladelphia thành lập theo nghị quyết của Đệ nhị Quốc hội Lục địa vào ngày 10 tháng 11 năm 1775 nhằm thành lập 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến. Ngày này được xem là ngày sinh nhật của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Vào cuối Chiến tranh Cách mạng Mỹ, cả Hải quân Lục địa và Thủy quân lục chiến Lục địa đều bị giải tán trong tháng 4 năm 1783. Riêng lực lượng thủy quân lục chiến không được tái lập cho đến năm 1798. Vào năm đó, vì chuẩn bị cho cuộc chiến được gọi là Chiến tranh nửa mùa (quasi-war) với Pháp, Quốc hội Hoa Kỳ đã thành lập Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.[25] Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ tuyển mộ binh sĩ vào Thủy quân lục chiến vào đầu tháng 8 năm 1797[26] để phục vụ trên các khu trục hạm nhỏ mà Quốc hội Hoa Kỳ mới cho đóng. "Đạo luật cung cấp trang bị vũ khí hải quân" ngày 18 tháng 3 năm 1794[27] cho phép các chiến hạm này có quyền tuyển mộ chi tiết bao nhiên binh sĩ thủy quân lục chiến trên mỗi tàu.

Hành động nổi tiếng của thủy quân lục chiến xảy ra trong thời kỳ này là cuộc Chiến tranh Berber lần thứ nhất (1801–1805) chống cướp biển Berber,[28] khi William Eaton và trung úy Presley O'Bannon dẫn 8 binh sĩ thủy quân lục chiến và 500 lính đánh thuê tìm cách đánh chiếm Tripoli. Mặc dù họ chỉ đến được Derna nhưng hành động của họ tại Tripoli đã trở nên bất hủ trong bài quân ca "Marines' Hymn" và thanh kiếm Mameluke mà các sĩ quan Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ mang bên người.[29]

Trong Chiến tranh 1812, các phân đội hải quân của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã tham dự vào các trận đánh lớn tay đôi giữa hai tàu đối địch mà đã tạo nên đặc tính của cuộc chiến. Đây là những chiến thắng đầu tiên của người Mỹ trong cuộc xung đột. Công sức lớn nhất của họ là đã làm chậm bước tiến của người Anh đến Washington, D.C. trong trận Bladensburg và cầm chân tuyến phòng thủ của tướng Andrew Jacksontrận New Orleans. Vào cuối chiến tranh, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ nổi danh một cách xứng đáng như là những xạ thủ cừ khôi, đặc biệt trong các trận đánh giữa hai tàu thù địch.[29]

Năm binh sĩ Thủy quân lục chiến Marines cùng với vị sĩ quan của họ ở Cơ xưởng Hải quân Washington năm 1864

Sau chiến tranh, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ rơi vào tình trạng yếu kém cho đến khi Archibald Henderson được bổ nhiệm làm tư lệnh thứ năm của Thủy quân lục chiến vào năm 1820. Dưới quyền của ông, Thủy quân lục chiến nhận những nhiệm vụ viễn chinh trong vùng Caribbe, vịnh Mexico, Key West, Tây Phi, Quần đảo Falkland, và Sumatra. Tham mưu trưởng Henderson có công trong việc ngăn chặn mọi nỗ lực của Tổng thống Jackson nhằm kết hợp và nhập Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ vào Lục quân Hoa Kỳ.[29] Thay vào đó, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua "Đạo luật vì tổ chức Thủy quân lục chiến tốt hơn" vào năm 1834, quy định rằng Thủy quân lục chiến là bộ phận của Bộ Hải quân Hoa Kỳ với vai trò ngang vai với Hải quân Hoa Kỳ (Bộ Hải quân Hoa Kỳ là cơ quan quản lý dân sự của cả Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và Hải quân Hoa Kỳ).[30] Đây là lần đầu tiên trong nhiều lần sự tồn tại của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bị đem ra thử thách.

Tư lệnh Henderson tình nguyện đưa Thủy quân lục chiến phục vụ trong cuộc chiến tranh với các bộ tộc người da đỏ Seminole trong năm 1835. Ông đích thân dắt gần phân nửa lực lượng Thủy quân lục chiến vào trận. Một thập niên sau đó, trong cuộc Chiến tranh Mỹ-Mexico (1846–1848), Thủy quân lục chiến đã thực hiện một cuộc tấn công nổi tiếng vào Dinh Chapultepec ở Mexico City mà sau này được ghi nhớ lại bằng câu "From The Halls of Montezuma" trong bài quân ca "Marines' hymn". Vào thập niên 1850, Thủy quân lục chiến tham gia các hoạt động tại Panamachâu Á, hộ tống Hải đoàn Đông Ấn của Matthew Calbraith Perry trong chuyến hành trình lịch sử của nó đến Viễn Đông.[31]

Vì tham chiến quá nhiều nơi ở ngoại quốc nên Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ chỉ đóng một vai trò tương đối trong Nội chiến Hoa Kỳ (1861–1865). Nhiệm vụ nổi bật nhất của họ là phong tỏa. Khi có thêm nhiều tiểu bang ly khai khỏi phe liên bang thì khoảng phân nửa số sĩ quan Thủy quân lục chiến cũng phải rời phe liên bang để gia nhập phe liên minh miền nam và thành lập Thủy quân lục chiến Liên hiệp mà cuối cùng chỉ đóng một vai trò rất nhỏ trong cuộc chiến.

Thời kỳ quá độ: Nội chiến đến Chiến tranh thế giới thứ nhất

Phần còn lại của thế kỷ 19 được đánh dấu bằng sự sa sút lực lượng và nội quan về nhiệm vụ của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Việc chuyển tiếp từ tàu buồm sang tàu hơi nước của Hải quân Hoa Kỳ đã đặt thành dấu hỏi là liệu Thủy quân lục chiến có còn cần thiết hay không trên các tàu hải quân. Trong khi đó, Thủy quân lục chiến phục vụ như nguồn nhân lực thích hợp trong việc can thiệp và đổ bộ để bảo vệ sinh mạng và quyền lợi của người Mỹ ở ngoại quốc. Thủy quân lục chiến đã tham gia vào trên 28 cuộc can thiệp riêng lẻ trong thời gian 30 năm từ cuối Nội chiến Hoa Kỳ đến cuối thế kỷ 19. Họ cũng được gọi đến để ngăn chặn các vụ náo loại lao động và chính trị bên trong Hoa Kỳ.[32] Dưới quyền của Tham mưu trưởng Jacob Zeilin, truyền thống và tục lệ của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bắt đầu được hình thành: Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ chọn hình tượng đại bàn, địa cầu và mỏ neo làm quân hiệu của mình vào ngày 19 tháng 11 năm 1868. Cùng trong thời kỳ này bài quân ca "Marines' hymn" được hát lần đầu tiên. Khoảng năm 1883, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ chọn khẩu hiệu của mình mà đến nay vẫn còn dùng là "Semper Fidelis" (nghĩa là luôn trung thành).[29]

John Philip Sousa, một nhà soạn nhạc, gia nhập Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ với vai trò một học viên vào năm 13 tuổi, đã phục vụ từ năm 1867 cho đến năm 1872, và rồi lần nữa từ năm 1880 đến năm 1892 với vai trò là trưởng ban nhạc Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.

Tranh của Georges Scott về Thủy quân lục chiến Mỹ tại Rừng Belleau năm 1918

Trong thời Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha (1898), Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã đưa các binh sĩ Hoa Kỳ vào bờ tại Philippines, Cuba, và Puerto Rico, chứng tỏ rằng họ luôn sẵn sàng để khai triển. Tại Vịnh Guantánamo, Cuba, Thủy quân lục chiến chiếm được căn cứ hải quân tiền phương mà vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay. Giữa năm 1899 và 1916, Thủy quân lục chiến tiếp tục tham gia mạnh mẽ vào các cuộc viễn chinh ở ngoại quốc trong đó có Chiến tranh Mỹ-Philippines, cuộc nổi loạn của Nghĩa Hòa ĐoànTrung Hoa (1899–1901), Panama, các cuộc bình định ở Cuba, vụ Ion PerdicarisMaroc, Veracruz, Santo Domingo, và các cuộc chiến có liên quan đến chuối (banana wars) tại HaitiNicaragua. Những kinh nghiệm có được trong các chiến dịch chống du kích của thời kỳ này được tập họp lại thành sách hướng dẫn chiến tranh nhỏ (Small Wars Manual).[33]

Chiến tranh thế giới thứ nhất

Trong thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, các cựu Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã làm một vai trò trung tâm khi Hoa Kỳ nhập cuộc trễ trong cuộc xung đột này. Không như Lục quân Hoa Kỳ, Thủy quân lục chiến có nhiều sĩ quan và binh sĩ dày dạn kinh nghiệm chiến trường và lại có một sự gia tăng nhỏ lực lượng. Tại đậy, Thủy quân lục chiến đã đánh trận nổi tiếng tại rừng Bellea, tạo nên thanh danh của Thủy quân lục chiến trong lịch sử hiện đại. Mặc dù kinh nghiệm viễn chinh trước kia của mình không được đánh giá nhiều trong thế giới phương Tây nhưng sức bền bỉ và mạnh bạo của Thủy quân lục chiến tại Pháp đã khiến cho họ được người Đức nể trọng và đánh giá họ như các Stosstruppen (binh sĩ xung kích) của Đức. Mặc dù Thủy quân lục chiến và giới truyền thông Mỹ tường thuật rằng người Đức đã đặt biệt danh cho Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ là Teufel Hunden, có nghĩa là "quỷ chó" nhưng không có bằng chứng nào được lưu trong văn khố của Đức (vì Teufelshunde mới chính là thuật từ đúng của Đức). Có lẽ đó là lời tuyên truyền của Mỹ. Tuy nhiên, cái tên đó xác đáng.[34] Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ nhập cuộc chiến với 511 sĩ quan và 13.214 binh sĩ và hạ sĩ quan, và đến ngày 11 tháng 11 năm 1918 lực lượng lên đến 2.400 sĩ quan và 70.000 hạ sĩ quan và binh sĩ.[35]

Giữa hai thế chiến, Thủy quân lục chiến được vị tư lệnh John A. Lejeune lãnh đạo. Dưới sự lãnh đạo của ông, Thủy quân lục chiến đã ứng nghiệm và phát triển ra các kỹ thuật về chiến tranh đổ bộ từ biển mà sẽ được dùng nhiều trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhiều sĩ quan trong đó có trung tá Earl Hancock Ellis đã nhìn thấy trước một cuộc chiến tại Thái Bình Dương với Đế quốc Nhật Bản và tiến hành chuẩn bị cho một cuộc xung đột như thế. Qua năm 1941, viễn tưởng chiến tranh thêm mở rộng, Thủy quân lục chiến khẩn cấp tiến hành các cuộc tập trận tấn công đổ bộ hỗn hợp và tìm kiếm trang bị dành cho tấn công đổ bộ mà thật sự rất hữu dụng trong cuộc xung đột sắp đến.[36]

Chiến tranh thế giới thứ hai

Đài tưởng niệm Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong chiến tranh, mô hình được dựa theo bức ảnh chụp nổi tiếng của Joe Rosenthal "cắm cờ trên Iwo Jima

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã đóng một vai trò trung tâm trong Chiến tranh Thái Bình Dương. Các trận đánh như Guadalcanal, Bougainville, Tarawa, Guam, Tinian, Saipan, Peleliu, Iwo Jima, và Okinawa đã xảy ra ác liệt giữa Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và Lục quân Đế quốc Nhật Bản.

Philip Johnston đã đề nghị sử dụng tiếng Navajo làm ngôn ngữ mật mã cho Thủy quân lục chiến. Ý tưởng này được chấp thuận ngay và mật mã tiếng Navajo chính thức được phát triển và biến thành ký tự âm chung của cả Lục quân và Hải quân Hoa Kỳ.

Trong suốt trận Iwo Jima, nhà nhiếp ảnh Joe Rosenthal đã chụp được bức hình nổi tiếng dựng cờ trên Iwo Jima gồm có 5 binh sĩ thủy quân lục chiến và một binh sĩ quân y hải quân đang cắm cờ Mỹ trên núi Suribachi. Các hành động của Thủy quân lục chiến trong suốt cuộc chiến đã làm tăng thêm danh tiếng đã được nổi bật của họ. Vào cuối chiến tranh, Thủy quân lục chiến mở rộng thêm từ hai lữ đoàn lên sáu sư đoàn, 5 không đoàn và các binh sĩ hỗ trợ, tổng cộng khoảng 485.000 binh sĩ thủy quân lục chiến. Ngoài ra, 20 tiểu đoàn phòng vệ và một tiểu đoàn dù cũng được thành lập.[37] Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bị thiệt hại khoảng 87.000 binh sĩ suốt Chiến tranh thế giới thứ hai (gần 20.000 tử trận). Có 82 người được nhận huân chương vinh dự.[38]

Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đối diện với một cuộc khủng hoảng toàn quân theo sau chiến tranh vì ngân sách thấp. Trong lúc thúc đẩy tái tổ chức và tăng cường lực lượng, các tướng lãnh Lục quân cũng tìm cách nhập toàn bộ quân binh các thứ của Thủy quân lục chiến vào trong Lục quân và Hải quân. Nhờ vào việc vận động nhanh chóng giành sự ủng hộ của Quốc hội nên Thủy quân lục chiến ngăn chặn được nỗ lực giải tán lực lượng với kết quả là Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ được bảo vệ chính thức bằng một đạo luật mới là Đạo luật An ninh Quốc gia 1947.[39] Chẳng bao lâu sau đó, vào năm 1952, Đạo luật Douglas-Mansfield cho phép tham mưu trưởng của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ một tiếng nói ngang bằng trong Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ về các vấn đề liên quan đến Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và thiết lập cơ cấu tổ chức với 3 sư đoàn và không đoàn bay tồn tại đến ngày nay.

Chiến tranh Triều Tiên

Trung úy Thủy quân lục chiến Baldomero Lopez cùng các binh sĩ dùng thang để leo qua đê biển trong trận Inchon, tháng 9 năm 1950

Chiến tranh Triều Tiên (1950–1953) đã chứng kiến Lữ đoàn Thủy quân lục chiến Lâm thời vừa được thành lập vội vã để giữ phòng tuyến tại vành đai Pusan. Để thực hiện tiến công bên sườn địch, tướng Douglas MacArthur đã cho gọi các lực lượng bộ binh và không lực Thủy quân lục chiến tiến hành một cuộc đổ bộ từ biển vào ở Inchon. Cuộc đổ bộ thành công đã khiến cho phòng tuyến của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên bị phá vở và lực lượng Hoa Kỳ đã rượt đuổi lực lượng Triều Tiên về phía bắc đến tận sông Áp Lục đến khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhảy vào cuộc chiến. Lực lượng Trung Hoa vượt trội về quân số đã bao vây và gây kinh ngạc cho các lực lượng Mỹ ít quân số hơn và còn bị phân tán trên một vùng quá rộng lớn. Quân đoàn X gồm có Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 1 và Sư đoàn Bộ binh số 7 của Lục quân Hoa Kỳ tập hợp lại và bị thiệt hại nặng trên đường vừa đánh vừa rút lui ra biển, được biết đến là trận hồ Chosin. Thủy quân lục chiến tiếp tục một trận đánh mỏi mệt quanh vĩ tuyến 38 cho đến khi có cuộc đình chiến năm 1953.[40] Chiến tranh Triều Tiên đã chứng kiến sự phát triển mở rộng Thủy quân lục chiến từ 75.000 binh sĩ hiện dịch lên đến một lực lượng gồm 261.000 binh sĩ, đa số là binh sĩ dự bị. 30.544 binh sĩ Thủy quân lục chiến bị thiệt mạng hoặc bị thương trong suốt cuộc chiến và 42 được tặng huân chương vinh dự.[41]

Chiến tranh Việt Nam

Thủy quân lục chiến Mỹ thuộc Đại đội H, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Thủy quân lục chiến số 4 đang lội nước trong một khu rừng gần Cam Lộ năm 1966

Thủy quân lục chiến đóng một vai trò quan trọng trong Chiến tranh Việt Nam, tham dự một phần trong các trận đánh như Đà Nẵng, Huế, Khe Sanh. Các binh sĩ Thủy quân lục chiến hoạt động ở các vùng phía bắc của Việt Nam Cộng hòa thuộc Quân khu 1. Trong lúc đóng quân tại đó, họ thường hay gặp phải chiến tranh du kích với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và đôi khi đánh những trận chiến qui ước với quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một phần lực lượng Thủy quân lục chiến tham gia vào Chương trình Hành động Kết hợp ít biết đến, dùng các kỹ thuật bất qui ước chống du kích và làm cố vấn quân sự cho Thủy quân lục chiến Việt Nam Cộng hòa. Thủy quân lục chiến rút quân vào năm 1971, và có trở lại ngắn ngủi vào năm 1975 để giúp di tản Sài Gòn và có thực hiện một cuộc giải cứu thủy thủ đoàn của chiếc tàu Mayagüez.[42]

Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến dài nhất đối với Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Vào cuối chiến tranh, có 13.091[43][44] binh sĩ Thủy quân lục chiến tử trận, 51.392 binh sĩ bị thương, và 57 người được tưởng thưởng huân chương vinh dự.[45][46] Vì các chính sách có liên quan đến việc thay đổi quân nên có nhiều binh sĩ Thủy quân lục chiến được đưa đến phục vụ tại Việt Nam hơn là trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai.[47]

Trong lúc phục hồi sau cuộc Chiến tranh Việt Nam, Thủy quân lục chiến rơi xuống điểm thấp bất lợi trong lịch sử phục vụ của mình vì các vụ trừng phạt bằng quân luật, một phần có liên quan đến những vụ đào ngũ vào lúc chiến tranh. Việc tái cải tổ lực lượng bắt đầu và cuối thập niên 1970 bằng việc loại bỏ những phần tử vô kỷ luật nhất. Đến khi tiêu chuẩn tân binh có chất lượng được cải thiện, Thủy quân lục chiến tập trung vào việc tái lập đội ngũ từ cấp bậc hạ sĩ quan xuống đến binh sĩ, đây là thành phần quan trọng của lực lượng.[9]

Thời kỳ quá độ: Chiến tranh Việt Nam đến Chiến tranh chống khủng bố

Sau Chiến tranh Việt Nam, Thủy quân lục chiến tái tục vai trò viễn chinh của mình, tham gia vào vụ giải cứu con tin tại Iran năm 1980 (Chiến dịch Eagle Claw), xâm nhập Grenada (Chiến dịch Urgent Fury) và xâm nhập Panama (Chiến dịch Just Cause). Ngày 23 tháng 10 năm 1983, tòa nhà tổng hành dinh của Thủy quân lục chiến tại Beirut, Liban bị đánh bom và trở thành vụ thiệt hại nặng nề nhất vào thời bình của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (220 binh sĩ thủy quân lục chiến và 21 thành viên phục vụ khác thuộc Đơn vị Viễn chinh Thủy quân lục chiến số 24 bị thiệt mạng) và dẫn đến việc Hoa Kỳ rút quân khỏi Liban. Năm 1990, binh sĩ Thủy quân lục chiến thuộc Lực lượng đặc nhiệm hỗn hợp Sharp Edge đã cứu hàng ngàn sinh mạng qua việc di tản các công dân của Mỹ, Pháp, Vương quốc Anh tránh khỏi bạo lực bùng phát từ cuộc Nội chiến Liberia. Trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh (1990–1991), lực lượng đặc nhiệm Thủy quân lục chiến đã hình thành nên lực lượng trung tâm cho Chiến dịch Lá chắn Sa mạc trong lúc các lực lượng của Hoa Kỳ và liên minh tập hợp lực lượng và sau đó là giải phóng Kuwait trong Chiến dịch Bão Sa mạc.[29] Thủy quân lục chiến tham dự vào các chiến dịch tác chiến tại Somalia (1992–1995) như Restore Hope, Restore Hope II, và United Shield để cứu trợ nhân đạo.[48]

Chiến tranh chống khủng bố toàn cầu

Thủy quân lục chiến Mỹ tiến vào một dinh thự ở Baghdad.

Sau các vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tổng thống George W. Bush tuyên bố thực hiện chiến tranh chống khủng bố. Mục tiêu được đặt ra trong cuộc chiến chống khủng bố là "đánh bại Al-Qaeda, các nhóm khủng bố khác và bất cứ quốc gia nào hỗ trợ hoặc che chở những kẻ khủng bố".[49] Kể từ đó, Thủy quân lục chiến cùng với các lực lượng liên bang và quân sự khác tiến hành các chiến dịch khắp nơi trên thế giới để hỗ trợ cho sứ mệnh đó.

Chiến dịch Enduring Freedom

Thủy quân lục chiến và các lực lượng Mỹ bắt đầu triển khai quân ở PakistanUzbekistan trên biên giới với Afghanistan vào đầu tháng 10 năm 2001 để chuẩn bị cho Chiến dịch Enduring Freedom.[50] Các đơn vị viễn chinh Thủy quân lục chiến số 15 và số 26 là các lực lượng qui ước đầu tiên tiến vào Afghanistan để hỗ trợ cho chiến dịch vào tháng 11 năm 2001. Vào tháng 12, Thủy quân lục chiến chiếm được Phi trường quốc tế Kandahar.[51] Kể từ đó, các tiểu đoàn và phi đoàn Thủy quân lục chiến đã lần lượt đụng độ với các lực lượng của TalibanAl-Qaeda. Binh sĩ thuộc Đơn vị Viễn chinh Thủy quân lục chiến số 24 đã tràn ngập thị trấn do Taliban chiếm giữ trong trận Garmsir ngày 29 tháng 4 năm 2008 trong tỉnh Helmand. Đây là chiến dịch lớn đầu tiên của Hoa Kỳ tại vùng này trong nhiều năm.[52] Tháng 6 năm 2009, 7.000 binh sĩ thuộc Lữ đoàn Viễn chinh Thủy quân lục chiến số 2 được đưa đến Afghanistan trong một nỗ lực cải thiện an ninh,[53] và bắt đầu Chiến dịch Strike of the Sword trong tháng tiếp theo sau.

Năm 2002, Lực lượng đặc nhiệm hỗn hợp gồm nhiều quân chủng đặc trách vùng Sừng châu Phi được tập họp tại trại Lemonier, Djibouti để mang lại an ninh cho vùng.[54] Mặc dù bộ tổng tư lệnh được chuyển sang cho Hải quân Hoa Kỳ vào năm 2006 nhưng Thủy quân lục chiến vẫn tiếp tục hoạt động tại Sừng châu Phi cho đến năm 2007.[55]

Chiến dịch Iraq Tự do

Gần đây nhất, Thủy quân lục chiến đã phục vụ nổi bật trong Chiến tranh Iraq. Lực lượng Viễn chinh Thủy quân lục chiến số I cùng với Sư đoàn Bộ binh số 3 Lục quân Hoa Kỳ đã họp thành một lực lượng tiên phong trong cuộc tiến công vào Iraq năm 2003.[56] Thủy quân lục chiến rời Iraq trong mùa hè năm 2003, nhưng sau đó quay trở lại với nhiệm vụ chiếm đóng vào đầu năm 2004. Họ nhận trách nhiệm trong tỉnh Al Anba, một vùng sa mạc rộng lớn ở phía tây Baghdad. Trong lúc chiếm đóng, họ đã đi đầu trong các cuộc tấn công vào thành phố Fallujah tháng 4 và tháng 11 năm 2004. Họ cũng tham gia vào các trận đánh ác liệt ở các địa danh như Ramadi, Al-Qa'im.[57] Thời gian tại Iraq của họ cũng gây nên các vụ gây tranh cãi và bị kiện tụng như vụ tàn sát Haditha và sự kiện Hamdania.[50][58] Nhờ vào nhóm người Iraq thuộc giáo phái Sunni ở tỉnh Anbar nổi lên chống lại Al-Qaeda và việc tăng thêm quân số vào năm 2007 nên đã giảm được cấp độ bạo loạn tại Iraq. Ngày 1 tháng 3 năm 2009, Tổng thống Barack Obama thông báo tại trại Lejeune về việc tiến hành rút quân đã hứa là toàn bộ binh sĩ sẽ được rút khỏi vào tháng 8 năm 2010.[59] Thủy quân lục chiến Mỹ chính thức kết thúc vai trò của mình tại Iraq vào ngày 23 tháng 1 năm 2010 khi họ giao trách tỉnh Al Anbar cho Lục quân Hoa Kỳ.[59][60]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thủy_quân_lục_chiến_Hoa_Kỳ http://german.about.com/od/culture/a/germyth13.htm http://www.acepilots.com/usmc/hist2.html http://www.cbsnews.com/stories/2009/06/08/world/ma... http://edition.cnn.com/2008/WORLD/asiapcf/04/28/af... http://transcripts.cnn.com/TRANSCRIPTS/0110/07/sm.... http://www.defensenews.com/story.php?F=3117663&C=a... http://detnews.com/article/20100123/NATION/1230372... http://www.iht.com/articles/2001/11/27/a1_46.php http://www.janes.com/defence/news/jdw/jdw060901_2_... http://www.marinecorpstimes.com/news/2009/10/marin...